Từ đầu năm 2016 đến nay, giá cá tra đạt đỉnh ở mức 22.000-22.500 đồng/kg (trả chậm) trong thời điểm đầu tháng 4 đến nửa đầu tháng 5, sau đó giảm dần và hiện ở mức 20.500-21.000 đồng/kg. Xu hướng chững giá một phần do chưa có đơn hàng mới, phần khác do các nhà máy chuyển qua bắt cá trong vùng nuôi, hạn chế thu mua cá bên ngoài để tránh gây áp lực tăng giá thu mua cá tra nguyên liệu. Điều này gây nhiều khó khăn cho các hộ nuôi cá tra đơn lẻ, nhất là hộ nuôi quy mô nhỏ, do giá cá đang thấp hơn giá thành sản xuất.
|
Cần liên kết chặt chẽ “bốn nhà” để phát triển bền vững nghề nuôi cá tra (ảnh chụp tại xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè, Tiền Giang). |
Nuôi nhỏ lẻ khó tồn tại
Trong thời kỳ “vàng son” của nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu, vai trò của các bên trong chuỗi ngành hàng cá tra đã được phân định rõ, trong đó nông dân lo nuôi cá tra, còn doanh nghiệp đảm nhận khâu chế biến và tìm thị thường xuất khẩu. Tuy nhiên, những năm gần đây, khi ngành hàng cá tra “xuống dốc”, để chủ động nguyên liệu, tiết giảm chi phí sản xuất và tăng lợi nhuận thì các doanh nghiệp đua nhau thực hiện mô hình sản xuất khép kín. Điều này dần đẩy các hộ nuôi cá tra quy mô nhỏ ra khỏi “sân chơi” mà trước đây thị trường đã “phân công” cho họ.
Tại Tiền Giang, tổng diện tích nuôi cá tra là 122ha, trong đó có 57,9ha là vùng nuôi của doanh nghiệp và 64,2ha là của hộ nuôi, trong đó không ít ao của hộ dân đang tạm ngừng nuôi. Theo Hội Nghề cá tỉnh, nguyên nhân dẫn đến diện tích nuôi cá tra của các hộ nuôi nhỏ lẻ ngày càng giảm là do thua lỗ trong những vụ nuôi trước nên bà con thiếu vốn tái sản xuất. Quan trọng hơn là do đầu ra bấp bênh, nông dân sợ thua lỗ nên phần lớn các hộ nuôi cá nhỏ lẻ phải bán cho doanh nghiệp, nuôi cầm chừng hay chuyển sang nuôi một số đối tượng khác. Do đó, hoạt động nuôi cá tra hiện nay chủ yếu diễn ra tại vùng nuôi cá nguyên liệu của doanh nghiệp chế biến xuất khẩu và một số hộ nuôi cá tra có tiềm lực kinh tế.
Bà Nguyễn Thị Bé Tư, có trại nuôi cá tra khoảng 3ha ở xã Tân Phong (Châu Thành - Tiền Giang), cho biết, giá thành nuôi cá tra ở trại của bà nằm ở mức 19.700-20.500 đồng/kg do trực tiếp mua giống từ cơ sở ương, mua hóa chất xử lý, thức ăn trực tiếp từ công ty bằng tiền mặt với giá chiết khấu như đối với đại lý. Tuy nhiên, đối với các hộ nuôi cá tra mua thức ăn, hóa chất xử lý bằng hình thức gối đầu thông qua các đại lý thì giá thành nuôi cá tra lên đến 22.000-23.000 đồng/kg. Theo tính toán của Chi cục Thủy sản, giá thành nuôi cá tra bình quân trên địa bàn tỉnh Tiền Giang hiện nay nằm ở mức 21.500 đồng/kg. Với giá cá tra nguyên liệu trên thị trường hiện nay thì người nuôi cá đang thua lỗ khoảng 1.000 đồng/kg, tương đương lỗ khoảng 300 triệu đồng/ha đối với hộ nuôi cá tra có năng suất bình quân 300 tấn/ha.
Sự phát triển ngược trong chuỗi
Theo Hội Nghề cá tỉnh Tiền Giang, để nuôi 1ha cá tra thì cần vốn lưu động gần 8 tỷ đồng (ao cá tra có sẵn) nên khi giá cá tra rẻ hơn giá thành sản xuất, thị trường tiêu thụ bấp bênh thì các hộ nuôi quy mô nhỏ không đủ sức tiếp tục tái đầu tư, buộc phải “treo ao”, bỏ nghề, bán ao hoặc nuôi gia công cho doanh nghiệp.
Trong thời gian tới, xu hướng khép kín sản xuất tiếp tục được các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu chú trọng và các tổ chức này đang dần hoàn thiện, hình thành dây chuyền khép kín từ khâu sản xuất thức ăn, giống, nuôi thương phẩm đến chế biến xuất khẩu và chế biến các phụ phẩm như: bột cá, dầu cá, collagen… nhằm đem lại lợi nhuận tối ưu cho doanh nghiệp. Hơn nữa, khi doanh nghiệp chủ động được phần lớn nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu thì khi thị trường tiêu thụ thu hẹp đương nhiên phải ưu tiên thu hoạch cá của doanh nghiệp, việc không tiêu thụ hay ép giá cá tra nguyên liệu của nông dân là không tránh khỏi. Đây cũng là lý do chính khiến cơ cấu sản xuất cá tra ngày càng có sự thay đổi lớn như hiện nay.
Sự phát triển của chuỗi ngành hàng cá theo hướng khép kín như hiện nay được Hiệp hội Cá tra Việt Nam gọi là “sự phát triển ngược trong chuỗi”, bởi thay vì phát triển dọc theo chuỗi để mở rộng thị trường, cạnh tranh ở nước ngoài thì ngành cá hội nhập ngược trở lại trong chuỗi. Các doanh nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu đua nhau mở rộng vùng nuôi, nhà máy sản xuất thức ăn cá, gia tăng cạnh tranh trong nước. Những diễn biến này dẫn đến thu hẹp thị trường ở nước ngoài, gia tăng cạnh tranh trong nước, suy giảm lợi nhuận toàn chuỗi ngành hàng cá tra, suy kiệt tài nguyên, gia tăng các xung đột và các doanh nghiệp quay lại đổ lỗi cho nhau.
Còn đó sự bất cập
Các chuyên gia ngành cá tra cho biết, hiện nay mối liên kết sản xuất giữa hộ nuôi cá tra với doanh nghiệp chế biến cũng còn rất lỏng lẻo, nhiều bất cập. Gần đây doanh nghiệp không ký hợp đồng đầu vụ với hộ nuôi mà chỉ ký hợp đồng nguyên tắc mang tính tham khảo, đến khi mua cá của hộ nuôi, doanh nghiệp mới ký hợp đồng với giá cả cụ thể. Tuy nhiên, hợp đồng này được ký mơ hồ, khi có tranh chấp xảy ra thì không có tính pháp lý và thường gây bất lợi cho người dân.
Nông dân nuôi cá tra chưa yên tâm sản xuất do giá cá nguyên liệu chưa ổn định (ảnh chụp tại xã Phú Phong, huyện Châu Thành, Tiền Giang).
Chẳng hạn, điều khoản trong hợp đồng quy định nếu không bán cá cho doanh nghiệp theo giá thị trường phải đền bù 30% giá trị hợp đồng và ngược lại. Tuy nhiên, đối với hộ nuôi thì cá tra đến lứa phải bán, không thể chờ, nếu chờ cá sẽ vượt size; còn đối với công ty thì có quyền chậm mua cá khi hộ nuôi thông báo bán cá để chờ giá rẻ hay thời điểm cần cá, bởi đâu phải là công ty không mua cá nên không phải đền hợp đồng. Hay như điều khoản công ty mua cá phải trả tiền cho hộ nuôi sau 30 ngày kể từ ngày bắt cá, nên có doanh nghiệp chiếm dụng vốn của hộ nuôi… cả năm.
Ông Trần Thanh Hồng Hải, có ao nuôi cá tra 8.000m2 ở ấp Tân An, xã Tân Phong (Cai Lậy - Tiền Giang), cho biết, năm 2013, ông nuôi gia công cho một công ty chế biến cá tra xuất khẩu, theo đó công ty cung cấp thức ăn theo hệ số 1,6 và sau thu hoạch công ty sẽ bắt toàn bộ cá với mức khoán các chi phí con giống, thuốc men, nhân công, tiền thuê ao là 5.000 đồng/kg cá. Sau khi thu hoạch, tính ra còn lãi 2.500 đồng/kg cá nhưng hơn 1 năm sau ông mới nhận được hết tiền bán cá.
Cần liên kết chặt chẽ “bốn nhà”
Thực tế cho thấy, những hộ nuôi cá tra hiện nay còn tồn tại hầu như là những hộ nuôi quy mô lớn, có tiềm lực kinh tế và liên kết với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, với vị thế ngày càng thấp, các hộ nuôi cá tra vốn đã khó khăn lại phải tiếp tục đối diện với nhiều thách thức hơn trong chặng đường phát triển sản xuất phía trước, nhất là trong vấn đề ổn định đầu ra cho cá tra nguyên liệu và đàm phán giá cả với doanh nghiệp chế biến.
Để người nuôi cá tra độc lập tiếp tục trụ lại với nghề và phát triển bền vững trong thời gian tới, theo một chuyên gia ngành nông nghiệp Tiền Giang, giải pháp quan trọng được đưa ra là các hộ nuôi cá tra phải liên kết ngang theo mô hình hợp tác xã kiểu mới nhằm tạo ra nguồn cung cá tra nguyên liệu đủ lớn để kiểm soát giá bán được tốt hơn. Đồng thời, xây dựng liên kết chặt chẽ giữa bốn nhà “hộ nuôi cá, nhà máy sản xuất thức ăn, ngân hàng, nhà máy chế biến xuất khẩu” để cùng chia sẻ rủi ro và lợi nhuận trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ cá tra.
Mặt khác, Nhà nước cần phải kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống, đẩy nhanh tiến độ thay thế đàn cá tra bố mẹ để tạo con giống chất lượng tốt, sạch bệnh, tăng sức đề kháng; sớm quy định giá sàn thu mua cá tra nguyên liệu; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về quản lý chất lượng giống, chất lượng thức ăn, thuốc thú y dùng trong nuôi trồng thủy sản; đẩy mạnh chính sách hỗ trợ vốn với lãi suất ưu đãi với thời gian vay trung hạn hoặc dài hạn để người nuôi cá tra có nguồn vốn tiếp tục tái sản xuất.
Ông Nguyễn Hoàng Anh ở xã Tân Phong (Cai Lậy - Tiền Giang) cho biết, những ngày gần đây, giá cá tra chỉ được các doanh nghiệp thu mua với giá 20.500 đồng/kg nhưng cũng khó tiêu thụ. Nguyên nhân là do một số công ty chế biến cá tra có tầm ảnh hưởng lớn tạo ra tình trạng “sốt ảo” trên thị trường để nâng giá trị nguồn cá tra nguyên liệu lớn từ vùng nuôi của mình. Sau đó, các công ty chế biến cá tra có vùng nuôi khác chuyển hướng chỉ bắt cá nguyên liệu của công ty, hạn chế thu mua cá bên ngoài để tránh gây áp lực tăng giá thu mua cá tra nguyên liệu. |