Liên kết tiêu thụ nông sản- vấn đề cấp thiết hiện nay
16:52 - 27/05/2016
(TNNN)- Hiện nay, khó khăn lớn nhất của nông dân là vẫn là đầu ra cho nông sản. Những năm qua, công tác liên kết tiêu thụ sản phẩm cho nông dân vẫn lỏng lẻo, sản phẩm vẫn chưa tiêu thụ được nhiều. Tình trạng “được mùa, mất giá” hay bị thương lái ép giá ngay cả khi mất mùa vẫn là một nỗi lo đối với nông dân.
Liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản- giải pháp quan trọng phát triển nông nghiệp bền vững. (Ảnh minh họa, nguồn Internet)

Trong giai đoạn 2010-2015, ngân sách T.Ư và địa phương đã đầu tư gần 3.000 tỷ đồng để cải tạo và xây mới gần 2.000 chợ. Đến nay, trong tổng số gần 8.600 chợ của cả nước, riêng địa bàn nông thôn, miền núi, biên giới có khoảng 6.600 chợ, chiếm từ 50-70% thị phần hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên, hệ thống chợ thương mại mới chủ yếu đáp ứng nhu cầu mua bán lương thực, thực phẩm, xăng dầu, vật tư, dụng cụ cho sản xuất và các nhu yếu phẩm cho đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân nông thôn. Trong khi hoạt động thu mua, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm nuôi trồng, đánh bắt của người dân địa phương còn nhỏ lẻ, tự phát, theo hình thức “tự sản tự tiêu”, nên giá trị không cao, chưa hình thành được vùng sản xuất hàng hóa lớn tập trung, để mở rộng thị trường tiêu thụ.
 
 
Tháng 5/2015, hàng trăm ha dưa hấu gặp lũ bất ngờ, nông dân phải bán đổ bán tháo; dưa hấu của bà con không xuất khẩu hết mắc kẹt ở cửa khẩu. Sau dưa hấu thì một loạt mặt hàng nông sản khác như: Gạo xuất khẩu bị ách tắc ở biên giới phía Bắc, hành tím của bà con Sóc Trăng, hành tây của bà con ở Đà Lạt… Nhiều chiến dịch “giải cứu” nông sản của một số cá nhân, tổ chức đã hình thành, và các mặt hàng này đã được tiêu thụ bằng tình thương, sự chia sẻ của đồng bào cả nước.
 
 
Thách thức về tiêu thụ nông sản ngày càng trở nên rõ nét khi cánh cửa hội nhập rộng mở. Các mặt hàng nông sản của Việt Nam, trái cây là sản phẩm thường xuyên bị mất giá tại thị trường nội địa, nhất là khi vào chính vụ. Trong khi đó, hàng ngày, một lượng lớn trái cây tươi vẫn được nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt Nam tiêu thụ. So với Thái Lan, trái cây Việt Nam khó cạnh tranh bởi thiếu sự đầu tư về mẫu mã, quy trình đóng gói, chất lượng không đồng đều. Đơn cử như xoài cát Hòa Lộc, dù thương hiệu đã được khẳng định nhưng sản phẩm đạt chất lượng cao rất ít (khoảng 30%). Bên cạnh khâu sản xuất, khâu vận chuyển cũng đáng lo ngại. Nhiều nông sản bị hư hại trong quá trình vận chuyển, không được khách hàng chấp nhận, buộc phải bán tháo với giá rẻ mạt.
 
 
Tại Sơn La, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, một trong những kênh tiêu thụ nông sản phổ biến nhất là hệ thống chợ với tỷ lệ khoảng 20% tổng giá trị hàng nông sản hàng năm, chủ yếu là rau, hoa, lâm sản, gia súc, gia cầm… Bên cạnh đó là hình thức tiêu thụ nông sản qua thương lái (chiếm khoảng 50% tổng giá trị hàng nông sản tiêu thụ hàng năm với các sản phẩm chính là ngô, sắn, cà phê, quả tươi, dược liệu)… Hình thức tiêu thụ được coi là “an toàn” nhất cho nông dân hiện nay là thông qua hợp đồng, liên kết sản xuất với các sản phẩm như chè, mía, sữa... phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trên thị trường. Điển hình trong mô hình liên kết hiệu quả cung cấp vật tư nông nghiệp tiêu thụ sản phẩm là Công ty CP Mía đường Sơn La, Công ty CP Chè Mộc Châu; Công ty CP Thương mại sông Đà; Công ty CP giống bò sữa Mộc Châu… Tuy nhiên, hình thức này mới chỉ chiếm khoảng trên 30% tổng giá trị hàng hóa nông sản. Nguyên nhân là hợp đồng vẫn còn nhỏ do quy mô HTX, tổ hợp tác chưa lớn, vốn ít, mạng lưới kinh doanh hẹp, tình trạng hộ dân phá vỡ hợp đồng vẫn khá phổ biến. Khi giá nông sản tăng, các hộ đã tự ý bán cho tư thương giá cao hơn, thậm chí bán sản phẩm ra ngoài để tránh phải thanh toán những khoản đầu tư ứng trước của các đơn vị. Điều đó đã gây không ít khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng, giảm sức hút với các doanh nghiệp, HTX tham gia liên kết sản xuất chế biến nông sản. Chưa kể việc sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thủ công, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, tổn thất sau thu hoạch còn cao.
 
 
Tại Hà Nội, Hội Nông dân Thành phố Hà Nội và 14 tỉnh phía Bắc thường xuyên trao đổi kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh bằng việc tổ chức hàng chục chuyến tham quan mô hình sản xuất nông nghiệp tiêu biểu cho cán bộ, hội viên. Hội cũng giao cho Trung tâm trợ giúp Nông dân có trách nhiệm trưng bầy và giới thiệu sản phẩm làng nghề thủ công mỹ nghệ thông qua mối liên kết 4 “nhà” (nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân). Trung tâm đã phối hợp với một số Doanh nghiệp cải tạo trụ sở của Hội tại 33 Nguyễn Chí Thanh để trưng bày và giới thiệu một số sản phẩm nông sản và thủ công mỹ nghệ làng nghề của Thủ đô nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm trong nước và thế giới. Tuy nhiên, đến nay các sản phẩm được tiêu thụ mạnh tại thị trường Thủ đô vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay, trong đó có cam Cao Phong (Hòa Bình), vải thiều Thanh Hà (Hải Dương), hải sản Thanh Hóa.
 
 
Vẫn còn tình trạng tỷ lệ nông sản hàng hóa tiêu thụ qua liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản giữa nông dân với các thành phần kinh tế khác còn thấp, chưa phát triển sâu rộng ở các địa phương, ngành hàng và sản phẩm. Một số nông dân cố tình bán sản phẩm ra bên ngoài để tránh việc thanh toán các khoản đầu tư ứng trước của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa tôn trọng lợi ích nông dân, không quan tâm xây dựng vùng nguyên liệu, lợi dụng thế độc quyền ép giá.
 
 
Hiện nay, trước yêu cầu hội nhập sâu vào quốc tế, thị trường cạnh tranh khốc liệt, việc xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng là hướng chủ đạo của nhiều doanh nghiệp kinh doanh nông sản. Chính vì thế, việc thúc đẩy, mở rộng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản không chỉ có nhu cầu từ phía nông dân, cơ sở sản xuất mà còn từ doanh nghiệp.
 
 
Nông sản Việt muốn tiêu thụ tốt chắc chắc phải có sự liên kết 4 nhà, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò là đầu tàu. Do đó, Nhà nước cần có thêm những chính sách hỗ trợ thông thoáng và khung pháp lý ổn định hơn nữa để thu hút doanh nghiệp đầu tư bài bản vào chuỗi giá trị nông nghiệp trong thời gian dài.
 
 
Ông Nguyễn Văn Phụng - Chủ tịch Hội Nông dân TP.HCM cho rằng: “Để giải quyết bài toán tiêu thụ nông sản hiện nay cho nông dân, phải làm sao tạo sự liên kết, tức doanh nghiệp ký được hợp đồng sản xuất và có trách nhiệm cụ thể với nông dân”.
 
 
Để doanh nghiệp liên kết với cơ sở sản xuất thành công, thì 2 bên phải hiểu nhau, đoàn kết hướng đến thị trường, người tiêu dùng. Cơ sở sản xuất phải đảm bảo chất lượng, an toàn, doanh nghiệp mới có thể tiến hành liên kết tiêu thụ. Như vậy, chính quyền cần hỗ trợ nhà sản xuất trong việc sản xuất nông sản đạt yêu cầu về chất lượng và an toàn.
 
 
Ngoài ra, doanh nghiệp không thể liên kết với từng cá thể mà chỉ liên kết với một tổ chức đại diện. Vì thế, việc quan trọng hiện nay là phát triển kinh tế tập thể và nông sản phải đảm bảo an toàn, chất lượng. Hội Nông dân cần đứng ra vận động bà con sản xuất theo mô hình liên kết hợp tác xã, tổ hợp tác, sản xuất phải có hợp đồng hay tích tụ ruộng đất… nhằm khắc phục tình trạng manh mún, tự phát, sản xuất theo phong trào để giảm chi phí, tăng năng suất, chất lượng, giá thành hạ nhưng giá trị lại tăng cao.
 
 
Đồng thời, Hội cũng phải chủ động “bắt tay” với doanh nghiệp. Trong đó, các Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân của Hội ở các địa phương sẽ là nơi giới thiệu sản phẩm, kết nối nông dân với doanh nghiệp để tiêu thụ nông sản cho bà con. Hội cũng xây dựng Sàn kết nối cung cầu lương thực, thực phẩm để tiêu thụ nông sản cho bà con nông dân. Với sàn kết nối cung cầu này nông dân sẽ biết rõ vùng nào nên sản xuất chuyên canh, cần trồng cây gì, nuôi con gì, bán ở đâu có hiệu quả.
 
 
Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng kho bảo quản sản phẩm tại vùng sản xuất tập trung. Như ở nước Úc họ có cam bán quanh năm, giá bán không chênh lệch do họ có công nghệ bảo quản, kho dự trữ đầy đủ. Việt Nam có khí hậu nhiệt đới, bốn mùa quanh năm đều có nông sản thu hoạch. Nếu có kỹ thuật bảo quản, chế biến sẽ đảm bảo được chất lượng nông sản sau thu hoạch, giải quyết đầu ra của sản phẩm, có ý nghĩa rất lớn trong tình hình hội nhập hiện nay.
 

Thiên Phúc
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

ĐBSCL: Mua tạm trữ 760.000 tấn gạo