|
Để đẩy mạnh tái cơ cấu ngành lúa gạo cần khuyến khích và hỗ trợ phát triển các HTX kiểu mới, gắn kết sản xuất và kinh doanh lúa gạo nhằm tập hợp nông dân |
Hiện nay, Việt Nam chiếm hơn 20% tổng lượng gạo xuất khẩu trên thế giới. Xuất khẩu gạo tăng không những góp phần đóng góp tăng trưởng kinh tế mà còn tăng vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy vậy, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo của Việt Nam còn thấp: tăng trưởng sản xuất lúa gạo trong thời gian qua chủ yếu theo chiều rộng và có xu hướng giảm dần, chất lượng gạo chưa cao, hoạt động chế biến sâu còn hạn chế. Thu nhập của nông dân trồng lúa còn thấp, không tương xứng so với các tác nhân khác tham gia kinh doanh lúa gạo và do đó, không tạo động lực để người nông dân đầu tư phát triển sản xuất lúa gạo. Ngoài ra, sản xuất lúa gạo gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường do sử dụng nhiều tài nguyên và lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu trong thâm canh.
Mặt khác, theo quy định, gạo xuất khẩu được áp thuế giá trị gia tăng (VAT) 0% trong khi gạo sản xuất, tiêu dùng trong nước phải chịu mức thuế suất 5%. Theo thống kê của Bộ NN-PTNT, lượng gạo tiêu thụ trong thị trường nội địa bị áp thuế VAT 5% chỉ chiếm khoảng 15% lượng gạo sản xuất, phần còn lại qua kênh thương lái trôi nổi không chịu thuế. Điều đó dẫn đến việc doanh nghiệp có đầu tư với nông dân làm gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa phải trả thuế VAT đầy đủ, rất khó cạnh tranh với thương lái và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo chất lượng kém hơn.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) được tổ chức theo mô hình liên kết ngang, tập hợp các nhà chế biến và kinh doanh xuất khẩu gạo. VFA có quyền lực và ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại và xuất khẩu của ngành lúa gạo, với 98% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước do hội viên của VFA thực hiện, được Chính phủ trực tiếp giao nhiệm vụ triển khai các chính sách của Nhà nước, quản lý ngành hàng để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực.
VFA được giao nhiều quyền đối với việc quản lý xuất khẩu như có quyền phân bổ 80% khối lượng gạo xuất khẩu theo hợp đồng tập trung giữa các hội viên, công bố giá hướng dẫn (giá sàn) để doanh nghiệp làm cơ sở đàm phán và ký kết hợp đồng, giám sát theo dõi tiến độ và cập nhật số liệu thống kê báo cáo các bộ ngành liên quan, tham gia quá trình thực hiện chương trình mua tạm trữ... Trong khi đó, VFA đã bỏ qua một số vai trò quan trọng như xây dựng chiến lược phát triển ngành hàng, quảng bá thương hiệu, phát triển nguồn cung trong nước, mở rộng hội viên nhằm kết nối hợp tác và phát triển theo chuỗi giá trị ngành hàng hiệu quả hơn...
Do chỉ tập trung khâu xuất khẩu nên thời gian qua VFA hướng hội viên vào mua bán qua trung gian thương lái hơn là đầu tư dài hạn cho nông dân để phát triển vùng sản xuất chuyên canh. Về thực hiện chính sách thu mua tạm trữ, thực tế khảo sát ở nhiều địa phương cho thấy hiệu quả của chính sách thu mua tạm trữ chưa cao. Người được hưởng lợi từ chính sách thu mua tạm trữ không phải là nông dân, mà là các thương lái, thu mua với giá rẻ và bán với giá cao.
Trong ngành lúa gạo, một số chuỗi liên kết gắn kết từ cung ứng đầu vào, sản xuất với tiêu thụ, như mô hình cánh đồng lớn đã được hình thành. Tuy nhiên, kinh tế hợp tác trong ngành lúa gạo còn chậm phát triển. Diện tích cánh đồng lớn chỉ chiếm dưới 5% diện tích canh tác lúa. Các tổ chức kinh tế hợp tác thì không thu hút được sự tham gia tích cực của nông dân, chủ yếu chỉ cung cấp dịch vụ tưới tiêu, đóng vai trò nhỏ trong liên kết nông dân - doanh nghiệp.
Vì vậy, để cải thiện môi trường kinh doanh trong ngành hàng lúa gạo, cần đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, hỗ trợ các doanh nghiệp làm ăn tốt đầu tư đổi mới trang thiết bị, xây dựng thương hiệu, chuyển hẳn từ buôn bán trao tay sang xây dựng hợp đồng đối tác đầu tư với các nhà nhập khẩu.
Việc phân bổ các hợp đồng Chính phủ, cần áp dụng hình thức đấu thầu cạnh tranh để tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Về thuế VAT, nên lựa chọn 2 chính sách để bảo đảm công bằng và nâng cao chất lượng, giá trị lúa gạo như: Áp mức thuế VAT giống nhau là 0% đối với gạo xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Giữ nguyên mức thuế suất VAT 5% đối với gạo tiêu dùng trong nước và áp thuế suất VAT 5% hoặc thu phí đối với gạo xuất khẩu.
Sử dụng nguồn kinh phí thu được từ xuất khẩu gạo để đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống kho chứa, triển khai nhân rộng mô hình cánh đồng lớn. Các cơ quan quản lý nhà nước phải tạo sự công bằng đối với các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị.
Cuối cùng, cần khuyến khích và hỗ trợ phát triển các HTX kiểu mới, gắn kết sản xuất và kinh doanh lúa gạo nhằm tập hợp nông dân. HTX đóng vai trò đại diện cho nông dân ký hợp đồng, liên kết với doanh nghiệp; tổ chức các dịch vụ như cung ứng vật tư nông nghiệp, dịch vụ bảo vệ thực vật, tạm trữ; tìm đầu ra sản phẩm nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận cho từng hộ nông dân.