Giữ vững chất lượng sản phẩm điều
10:33 - 26/10/2015
(TNNN)- Trong vòng 9 năm trở lại đây, Việt Nam luôn là quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu (XK) hạt điều, chiếm khoảng 30% thị phần điều chế biến của thế giới. Thống kê của Bộ NN&PTNT cho biết, trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu 150.000 tấn điều nhân các loại, giá trị thu về 1,08 tỷ USD, tăng 14% về lượng nhưng giá trị tăng 28%.
Chế biến nhân điều XK (Ảnh minh họa)


Tuy nhiên, ngành điều thường xuyên thiếu hụt nguyên liệu điều thô để chế biến XK dẫn đến phụ thuộc quá lớn vào nguyên liệu điều thô nhập khẩu (NK), nhất là từ châu Phi. Năng lực sản xuất trong nước hiện chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu của ngành công nghiệp chế biến điều.
 
Uớc tính mỗi năm, ngành điều phải nhập khẩu (NK) khoảng 500.000 - 600.000 tấn điều thô (trong đó ít nhất 50 - 60% đến từ châu Phi). Riêng trong 6 tháng đầu năm 2015, lượng điều thô NK để chế biến đã đạt tới 414.000 tấn, trị giá 527 triệu USD, tăng 73,2% về khối lượng và tăng gấp 2 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2014.
 
Trong khi đó, điều thô NK lại có chất lượng thấp hơn điều trong nước, nên nhiều rủi ro về chất lượng sản phẩm là điều không tránh khỏi. Mặt khác, năm nay, do nguồn cung điều thô từ châu Phi hạn chế do mất mùa cộng với tình trạng giá điều thô tăng mạnh, khiến nhiều DN chật vật xoay sở nguồn NK hạt điều thô.
 
Là 1 trong 3 nước có diện tích và sản lượng điều cao nhất thế giới, hiện Việt Nam có khoảng 450.000 ha điều được trồng tập trung nhiều nhất chủ yếu ở các tỉnh Đông Nam bộ như: Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai và vùng Tây Nguyên.
 
Việc phát triển vùng nguyên liệu trong nước đang vô cùng khó khăn. Diện tích trồng điều ngày càng giảm sút, trong giai đoạn từ 2005 - 2014, diện tích điều đã giảm 122.200 ha do trồng điều người dân có thu nhập không cao. Các DN chế biến điều chỉ chú trọng làm sao có nhiều sản phẩm XK, tăng lợi nhuận kinh doanh chứ chưa cùng ngồi lại tập trung phát triển vùng nguyên liệu bền vững và thiếu sự liên kết với các hộ sản xuất do quy mô quá nhỏ lẻ.
 
Ngoài ra, hơn 75% diện tích vườn điều là giống cũ, quảng canh, chưa được cải tạo… gây nhiều khó khăn trong việc đầu tư để tăng năng suất. Trong khi đó, theo quy hoạch ngành điều của Bộ NN&PTNT, đến năm 2020, diện tích trồng điều cả nước ổn định 300.000 ha, năng suất bình quân 1,5 tấn/ha. Ở vùng trồng điều tập trung thuộc vùng trọng điểm đạt trên 2 tấn/ha; sản lượng hạt điều khoảng 400.000 tấn.
 
 
Cả nước có khoảng 265 cơ sở chế biến điều với công suất chế biến 1,2 triệu tấn điều hạt/năm. Trong đó chỉ có 30 doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn như HACCP, ISO 9001, ISO 1400, ISO 2200… Có đến 119 cơ sở, doanh nghiệp - tương đương 45%, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (bị xếp loại C). Hầu hết các cơ sở chế biến chưa công bố hợp quy theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia QCVN 01-08:2009/BNNPTNT: Cơ sở chế biến điều – Điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Các cơ sở chế biến công suất nhỏ vẫn đang chiếm lượng lớn. Trong đó, có nhiều cơ sở chế biến quy mô nhỏ lẻ hộ gia đình 5-7 lao động, do không đầu tư máy móc, thiết bị đồng bộ, hầu hết làm thủ công. Điều này đặt ngành điều nước ta trước những thách thức trong thời gian tới.
 
Ngành điều cũng đang đối diện với một vấn đề khác là có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu điều nhân dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh, chất lượng không đồng đều. Năm 2014 có tới 345 DN XK điều nhân, nhưng trong đó có đến 73% chỉ có kim ngạch chưa đến 5 triệu USD.
 
Sản phẩm nhân điều của Việt Nam hiện xuất khẩu trên 50 quốc gia và không phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào. Trong đó, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường xuất khẩu điều lớn nhất của Việt Nam, chiếm lần lượt 39,98%, 13,12% và 10,89% tổng giá trị xuất khẩu.
 
Hiện nay, sản phẩm nhân điều của Việt Nam xuất khẩu vào một số thị trường như Mỹ có mức thuế suất bằng 0%. Tuy không chịu ảnh hưởng bởi rào cản thuế quan, song thị trường tiêu thụ nhân điều chủ yếu lại là các nước phát triển. Do đó, các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm bắt buộc doanh nghiệp phải đáp ứng thì mới có thể xâm nhập và đứng vững ở các thị trường này. Với tỷ lệ 45% cơ sở, doanh nghiệp không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nói trên sẽ khiến ngành điều gặp những khó khăn trong thời gian tới. Hiện Tổ chức FDA (Cục Quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ) đang qua Việt Nam khảo sát nhiều cơ sở chế biến điều xuất khẩu vào thị trường Hòa Kỳ ở các tỉnh như Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu… Nếu các cơ sở này không đáp ứng được yêu cầu thì sẽ khó thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
 
Hiệp hội Điều Việt Nam (Vinacas) cho biết, hiện các doanh nghiệp chế biến điều nhân, giá trị gia tăng sản phẩm nhân điều như điều nhân rang muối, tẩm mật ong... bán cho thị trường nội địa chỉ chiếm 6%, còn lại 94% lượng điều xuất khẩu là điều nhân đóng gói. Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, thị trường nội địa có sức mua lớn nhưng lại chưa được doanh nghiệp quan tâm đúng mức.
 
Nguyên nhân được lý giải là diện tích điều Việt Nam giảm mạnh trong những năm giá mủ cao su cao nên sản lượng năm cao nhất chỉ đạt khoảng 400.000 tấn, trong khi nhu cầu chế biến từ 1 - 1,2 triệu tấn.
 
Việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn nguyên liệu NK làm cho các DN sản xuất hàng XK chịu chi phí cao, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng thấp. Điểm yếu này sẽ càng trở nên bất lợi khi Việt Nam tham gia vào TPP.
 
Thâm canh, áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất là một trong những vấn đề quan tâm nhất hiện nay của ngành điều.
 
Phó chủ tịch Hiệp hội Điều Việt Nam Đặng Hoàng Giang cho biết: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt hỗ trợ hiệp hội 1 tỷ đồng cho dự án khuyến nông ghép cải tạo vườn điều. Trong khi chờ đợi, hiệp hội đã thuê chuyên gia đánh giá độc lập kết quả dự án và triển khai các điểm ghép cải tạo. Theo đó, Bình Phước có 40 điểm ghép, Đồng Nai 20 điểm, Bà Rịa - Vũng Tàu 10 điểm, Bình Thuận 10 điểm, Lâm Đồng 20 điểm.
 
Hiện Bộ NN&PTNT đang xây dựng Đề án xây dựng thương hiệu Điều Việt Nam. Theo Bộ này, hạt điều của Việt Nam có chất lượng và hương vị ngon nhất thế giới nhưng lâu nay, chúng ta chỉ tập trung xuất khẩu sản phẩm điều nhân đóng gói và hạt điều Việt Nam chưa có thương hiệu. Do đó, Bộ có kế hoạch xây dựng thương hiệu cho hạt điều, để từ đó nâng cao giá trị xuất khẩu mặt hàng này.
 
Đề án này sẽ tập trung giải quyết các vấn đề như xây dựng thương hiệu điều quốc gia, xây dựng chỉ dẫn địa lý điều cho các địa phương trồng điều trọng điểm. Quan trọng nhất là hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình. Có như vậy mới giúp ngành điều giải quyết bài toán “quá phụ thuộc” vào xuất khẩu nhân điều đóng gói như hiện nay.
 
Trong khi nhu cầu tiêu thụ hạt toàn cầu đang tăng trưởng mạnh, nhất là thị trường Mỹ và các quốc gia châu Âu thì sản lượng các loại hạt đối trọng của hạt điều như hạnh nhân, hạt phỉ, dẻ cười, óc chó... đều giảm do biến đổi khí hậu. Khách hàng Mỹ rất quan tâm đến chất lượng điều nhập khẩu và việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Mỹ đang dự kiến sẽ đầu tư nhà máy ở Việt Nam để tập trung nguồn hàng, đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng FDA.

Mạnh Phú
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

ĐBSCL: Mua tạm trữ 760.000 tấn gạo