|
Ảnh minh họa |
Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 đã đánh dấu sự khởi đầu của một quá trình tham gia vào nền kinh tế toàn cầu bình đẳng với tất cả các thành viên khác của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh. Kể từ thời điểm đó, Việt Nam liên tục tham gia đàm phán nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác đa phương, khu vực và song phương. Hiện, chúng ta đã tham gia đàm phán, ký kết và đang triển khai thực hiện 7 FTA, gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), FTA ASEAN - Trung Quốc, FTA ASEAN - Ấn Độ, FTA ASEAN - Australia/New Zealand, FTA ASEAN - Hàn Quốc, FTA ASEAN - Nhật Bản và FTA Việt Nam - Nhật Bản. Việc ký kết các hiệp định sẽ mở ra cơ hội xuất khẩu (XK) hàng hóa của Việt Nam vào các thị trường với thuế suất giảm đáng kể và ngược lại.
Đơn cử như theo cam kết cắt giảm thuế mở cửa thị trường của ATIGA, năm 2015, trong tổng số 1.539 dòng thuế nông, thủy sản, đã có 1.434 dòng thuế về 0%, còn lại 123 dòng thuế ở mức thuế 5% hoặc chưa cam kết cắt giảm. Đến năm 2018, chỉ còn 55 dòng giữ mức thuế 5%. Đối với cam kết trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), năm 2015, có 21 dòng sản phẩm duy trì mức thuế cao 20% (lá chè xanh - đen, gạo, thịt và phụ phẩm sau mổ,…), 80 dòng ở mức thuế 5%, 46 dòng chưa cam kết cắt giảm. Đến năm 2018, chỉ còn 67 dòng sản phẩm duy trì thuế, toàn bộ 80 sản phẩm áp thuế 5% sẽ giảm xuống còn 0%...
Việc thực hiện các cam kết thương mại song phương và khu vực sẽ góp phần tăng trưởng XK và đa dạng hóa thị trường, sản phẩm XK, tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng, khả năng cạnh tranh nông, lâm, thủy sản và tăng cường hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn vệ sinh thực phẩm; tạo cơ hội để thay đổi cơ cấu sản xuất và phát huy cao hơn lợi thế của các ngành, hàng.
Trên thực tế, từ khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới, XK nông sản đã giành được nhiều thành tích đáng kể.Tỷ trọng XK nông sản trong XK hàng hóa của nước ta ổn định ở mức cao, đạt 26 - 27%. Nông nghiệp là ngành duy nhất xuất siêu ra thị trường thế giới với mức 8,5 tỷ USD năm 2013 và 9,5 tỷ USD năm 2014. Hiện, ta đã có 10 sản phẩm XK với kim ngạch trên 1 tỷ USD. Kể từ khi tham gia hội nhập, Việt Nam đã có quan hệ thương mại ổn định với hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức đối với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn như gia tăng cạnh tranh và áp lực tới sản xuất, làm thu hẹp một số lĩnh vực sản xuất có khả năng cạnh tranh thấp; phát sinh tranh chấp thương mại; chậm điều chỉnh cơ cấu sản xuất để khai thác cơ hội cho thị trường và phát huy lợi thế so sánh của các vùng…
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, trong 3 tháng đầu năm, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, mức tăng trưởng toàn ngành đạt thấp nhất so với cùng kỳ của 3 năm trở lại đây. Trong quý I/2015, GDP toàn ngành đạt 66.940 tỷ đồng, tăng 2,14% so với cùng kỳ. Mặc dù, các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản cơ bản đều tăng về diện tích và sản lượng, nhưng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành trong quý I lại giảm 13,2% so với cùng kỳ. Các mặt hàng nông sản chủ lực giảm 15,1%, thuỷ sản giảm trên 20%. Trong khi đó, nhập khẩu các loại nông, lâm, thuỷ sản và vật tư nông nghiệp lại có chiều hướng tăng. Theo đó, thặng dư thương mại giảm 53,4% so với cùng kỳ.
Để từng bước vượt qua thách thức và khắc phục những khó khăn trước mắt, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cần theo dõi sát diễn biến cung cầu thị trường trong nước và thế giới nắm rõ tình hình xuất nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm thủy sản, những khó khăn, vướng mắc để có các giải pháp tháo gỡ. Tăng cường công tác thủy lợi phát triển hạ tầng, nâng cao năng lực phòng chống lụt bão và ứng phó biến đổi khí hậu. Tiếp tục thực hiện thúc đẩy thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, quan tâm đến công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về hội nhập thông qua việc thông tin kịp thời và đầy đủ những nội dung mới của các hiệp định thương mại, tổ chức phổ biến rộng rãi về lộ trình và mức độ tác động của hiệp định để các đơn vị có phương án hoàn chỉnh quy hoạch, chiến lược phù hợp.
Việc cần làm trước mắt để chuẩn bị cho quá trình hội nhập là đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để đội ngũ cán bộ, doanh nghiệp và người dân hiểu rõ hơn về quá trình này, đồng thời tổ chức lại sản xuất theo chuỗi để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm chứ không thể để nông dân tự bơi như hiện nay.
Ngoài ra, Nhà nước (cả ở Trung ương và địa phương) cũng phải thể hiện vai trò của mình trong quá trình hội nhập là làm lành mạnh hóa thị trường, triệt tiêu lợi ích nhóm để sản xuất, tiêu thụ được thông suốt. Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi; duy trì tốt diện tích gieo trồng vụ hè thu; tăng cường hướng dẫn bà con tập trung nuôi trồng những mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam. Đồng thời có giái háp hỗ trợ thích hợp cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao trong sản xuất, chế biến và tiêu thị nông sản.
Sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, mạnh ai nấy làm cũng là một rào cản trong quá trình hội nhập. Vì vậy, xây dựng mối liên kết nông dân - doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, tiêu thụ và nâng cao chất lượng sản phẩm là đòi hỏi bức thiết, không chỉ của ngành càphê. Mối liên kết lỏng lẻo cũng thể hiện rõ trong ngành ong mật khi mà ở nước ngoài, nhiều doanh nghiệp, trang trại sẵn sàng thuê đàn ong đến để thụ phấn cho cây thì ở ta, nhiều địa phương, người dân sẵn sàng xua đuổi đàn ong vào mùa lấy mật, gây khó khăn hơn trong quá trình sản xuất.
Hội nhập kinh tế quốc tế là phù hợp với lợi ích lâu dài của đất nước, không thể xây dựng nền kinh tế vững mạnh nếu không có mở cửa hội nhập và đây là quá trình không thể đảo ngược. Để thực hiện được mục tiêu đề ra cần làm tốt tái cơ cấu ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, nắm vững yêu cầu hội nhập, cụ thể hóa trong các chương trình kế hoạch, trên cơ sở đó lựa chọn nhiệm vụ ưu tiên thực hiện”.