Lưu ý khi ương giống
Ương bằng bể xi măng hay vải bạt, mỗi bể nên có diện tích 50 - 100 m2, độ sâu bể 0,8 - 1 m. Lấy nước vào bể 2 - 3 ngày thì tiến hành thả tôm post vào ương. Mật độ ương 150 - 200 con/m2. Đặc biệt là phải sục khí để đảm bảo đủ ôxy cho tôm hô hấp.
Ương trong ao, lấy nước vào ao qua lưới lọc, bón phân chuồng ủ oai với liều lượng 15 - 20 kg/100 m2, phân vô cơ 0,3 - 0,5 kg/100 m2, 7 - 10 ngày sau khi lấy nước vào ao thì tiến hành thả tôm post vào để ương. Tôm post đạt cỡ post 15, kích cỡ đồng đều, bơi lội nhanh lẹ. Thuần độ mặn của nước trong bao vận chuyển tôm post và nước của ao ương không chênh lệch về độ mặn để tránh tôm bị sốc. Mật độ ương 100 - 150 con/m2.
Cho ăn ngày 2 - 3 lần bằng các loại thức ăn viên có hàm lượng đạm 35 - 40%, kích cỡ phù hợp. Lượng thức ăn hàng ngày 10 - 15% tổng trọng lượng đàn tôm ương. Khi cho tôm ăn phải tạt thức ăn đều khắp ao. Sau thời gian ương 30 - 45 ngày tôm đạt chiều dài 2 - 3 cm thì tiến hành thu hoạch.
Kỹ thuật nuôi
Chuẩn bị ao và cải tạo ao nuôi tôm càng xanh thương phẩm cũng giống như nuôi các đối tượng khác. Đầu tiên, chọn vị trí ao nuôi nên gần nguồn nước để dễ dàng thay nước và cấp nước khi cần thiết, đặc tính ăn của tôm càng xanh là động vật (cá, ốc, cua xay...) rất dễ làm hư, thối nước. Tiếp theo, bơm cạn ao, vét bùn đáy, vệ sinh xung quanh bờ ao, bón vôi với lượng: 7 - 10 kg/m2, phơi nắng 3 - 4 ngày rồi lấy nước vào ao qua lưới lọc với độ sâu 0,8 - 1,2 m là thích hợp cho nuôi tôm càng xanh.
Sau thời gian lấy nước vào 7 - 10 ngày, thì tiến hành thả tôm giống vào để nuôi. Tôm giống có thể chọn từ nguồn giống tự nhiên và giống sản xuất nhân tạo. Tuy nhiên, nên chọn giống nhân tạo để nuôi vì có nhiều ưu điểm hơn. Chọn tôm giống có màu sắc sáng đặc trưng của loài, kích cỡ đồng đều, cơ thể cân đối, khỏe mạnh, không dị hình, dị tật. Chiều dài thân 2 - 3 cm đối với giống nhân tạo và 4 - 6 cm đối với giống tự nhiên.
|
Thả tôm càng xanh với mật độ 5 - 7 con/ m2 - Ảnh: PTC |
Mật độ thả nuôi tôm càng xanh 5 - 7 con/m2. Nuôi tôm càng xanh có thể nuôi ghép với cá sặc rằn, cá mè trắng để tận dụng thức ăn tự nhiên có sẵn trong ao, đồng thời lọc nước ao nuôi hạn chế nước ao nuôi quá quá xanh, dơ làm tôm nuôi bị đóng rong, thiếu ôxy. Tôm càng xanh có thể nuôi quanh năm tốt nhất là từ tháng 4 - 12 hàng năm.
Do tôm có tập tính hoạt động mạnh về đêm nên cho ăn ngày 2 lần vào 5 - 6 giờ sáng và 5 - 8 giờ chiều. Loại thức ăn cho ăn bằng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 30 - 40%, hoặc thức ăn tự chế như cua, ốc, cá vụn, khoai mì, dừa khô... Lúc mới thả cho đến 1 tháng nuôi cho ăn mỗi ngày với lượng 8 - 10% tổng trọng lượng đàn tôm nuôi. Sau 1 tháng nuôi mỗi ngày cho ăn với lượng 5 - 7% tổng trọng lượng đàn tôm nuôi. Tuy nhiên, trong quá trình cho ăn nên quan sát xem lượng thức ăn thừa hay thiếu mà ta điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Chú ý, nên bổ sung thêm Vitamin C và Premix để tăng sức đề kháng cho tôm nuôi.
Thường xuyên theo dõi hoạt động của tôm nhất là vào ban đêm, xem màu nước ao, để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp không nên cho ăn quá thừa dễ làm hư thối nước; khi phát hiện tôm bị bệnh thì phải điều trị ngay. Định kỳ thay nước để nước đảm bảo tốt cho tôm phát triển và lột xác nhanh lớn; Sau thời gian nuôi được 2 - 3 tháng nên thu tỉa tôm cái. Hằng ngày nên kiểm tra bờ ao, cống bọng, tránh tôm bị thất thoát.
Định kỳ diệt cá tạp, cá dữ 2 tháng/lần với Sapotech liều lượng 0,5 kg/100 m3 nước hoặc rễ cây thuốc cá 0,5 kg/100 m3 nước.
Các loại bệnh thường gặp trên tôm
Bệnh đóng rong: Tôm bệnh khi môi trường nước xấu, thức ăn không đảm bảo số lượng, chất lượng, chế độ thay nước không tốt dẫn đến môi trường nước bị ô nhiễm, tảo phát triển nhiều, tôm bỏ ăn suy dinh dưỡng hay nền đất dơ bẩn. Khi tôm bệnh nhìn bên ngoài sẽ thấy lớp tảo, rong bám khắp mình tôm. Bị nhiễm bệnh nhiều tôm sẽ khó di chuyển và lột xác, trao đổi khí khó khăn và gây chết khi hàm lượng ôxy thấp.
Để phòng bệnh đóng rong cần luôn giữ môi trường nước ao nuôi tốt, tránh sự tích tụ nhiều chất hữu cơ ở lớp bùn đáy, cho tôm ăn các loại thức ăn đảm bảo chất lượng. Khi tôm bệnh dùng phèn xanh (CuSO4) 100 g/100 m3 nước hay formol với liều lượng 2 - 2,5 lít/100 m3 nước để xử lý tôm bệnh.
Bệnh đốm đen: Do tôm bị sốc hay tổn thương do tác động bên ngoài làm tôm suy yếu, môi trường nước bên ngoài không tốt dẫn đến các vi khuẩn hay nấm (Vibrio, Pseudomonas) tấn công lên cơ thể con tôm dẫn đến xuất hiện những vết thương màu nâu hay đen, nổi thành gờ trên vỏ tôm hay các phụ bộ. Khi tôm bệnh cần giữ môi trường ao nuôi tốt và tranh việc xáo trộn môi trường nuôi, khi tôm bị bệnh có thể dùng kháng sinh Pizomex 10 g/kg thức ăn cho ăn liên tục trong 3 ngày hay dùng các sản phẩm có hoạt chất Iodine phun xuống ao nuôi 2 - 3 ngày.
Bệnh khác: Bệnh phồng mang do ký sinh, đen mang, đỏ đuôi, mềm vỏ... nếu găp với tỷ lệ trên 10% đàn tôm nhiễm bệnh cần xử lý. Vệ sinh môi trường nước ao nuôi tốt, thay nước kịp thời. Dùng sản phẩm có hoạt chất Iodine phun đều khắp ao nuôi, đồng thời dùng các sản phẩm premix trộn vào thức ăn nhằm giúp tôm tăng sức đề kháng và hấp thụ thức ăn tốt hơn.