“Qua cuộc khảo sát tại 3 tỉnh, thành phố về thực trạng phát triển làng nghề, chúng tôi thấy càng trân trọng hơn giá trị của làng nghề Việt Nam. Chính từ sự trân trọng đó cần suy nghĩ để phát huy, phát triển làng nghề trong thế kỷ 21”.
Đó là khẳng định của đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam với báo giới bên lề Tọa đàm "Làng nghề Việt Nam: Truyền thống, thực trạng và giải pháp phát triển trong thời kỳ hội nhập" do MTTQ Việt Nam phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức vừa qua, tại Hà Nội.
Chủ tịch Nguyễn Thiện Nhân cho biết, “làng nghề có từ hàng nghìn năm qua, nhưng làng nghề trong thế kỷ 21 khác như thế nào so với làng nghề ở thế kỷ 10? Các Mác nói rất ý nghĩa, đó là các xã hội khác nhau không phải ở chỗ sản xuất ra sản phẩm gì mà sản xuất như thế nào? Đây là câu hỏi rất hay. Bởi sản phẩm làng nghề đã có từ hàng nghìn năm và hiện nay sản phẩm cơ bản vẫn như vậy nhưng cái khác là sản xuất như thế nào, điều này thể hiện môi trường xã hội đã thay đổi sau 1.000 năm.
Đặc điểm làng nghề Việt Nam là tạo ra những sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế của dân tộc Việt Nam – một nền kinh tế lúa nước, nhưng nó là những sản phẩm để định vị nền văn hóa Việt Nam.
Theo đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, đặc điểm làng nghề Việt Nam là tạo ra sản phẩm vừa phục vụ phát triển kinh tế – một nền kinh tế lúa nước, nhưng nó cũng là những sản phẩm để định vị nền văn hóa Việt Nam. Ví dụ người Việt Nam ăn như thế nào, thể hiện qua các làng nghề ẩm thực. Người Việt Nam mặc như thế nào, thể hiện qua làng nghề dệt may. Người Việt Nam ở như thế nào, thể hiện qua nhà của người Việt Nam... Như vậy, giá trị làng nghề làm cho cuộc sống được vật chất hóa về yếu tố văn hóa sản xuất. Xã hội càng phát triển, yếu tố văn hóa Việt càng quan trọng và càng đi lên. Tuy qua một nghìn năm phát triển, sản phẩm làng nghề có thể chưa thay đổi nhiều, nhưng nhu cầu đưa văn hóa Việt Nam vào từng hộ gia đình, từng nhà trường, đền chùa... hết sức quan trọng.
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, sau một nghìn năm nhu cầu sản phẩm văn hóa trong xã hội Việt Nam vẫn tăng, đó là động lực cho làng nghề, nhưng có một thay đổi quan trọng là chúng ta không sống ở nền kinh tế làng xã nữa mà là kinh tế thị trường, đặc biệt là gắn với hội nhập quốc tế. Làng nghề muốn sống được thì phải đáp ứng những yêu cầu căn bản là chất lượng ngày càng nâng cao, chi phí phải giảm, mẫu mã phong phú và đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng không chỉ cả số đông mà cả số ít. Yếu tố tạo sức mạnh cạnh tranh, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, tiếp cận thị trường số đông nhưng sản phẩm vẫn phải đảm bảo cá thể hóa, điều đó từng hộ không làm được.
Trực tiếp thăm làng nghề Phù Lãng ở Bắc Ninh, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân cho biết, mỗi hộ khi sản xuất phải sắm một máy đùn đất trị giá 10 triệu đồng nhưng chỉ trộn và đùn đất tương đối mềm, đất chưa thật mịn, chưa loại trừ hết tạp chất nên khi nặn phải nặn dày mới đảm bảo, chất lượng cũng không đồng nhất. Nếu mua một máy đùn đất kiểu mới, vừa đùn, vừa sàng lọc, đảm bảo chất lượng cao, giá 300 triệu đồng. Một hộ không thể sắm máy 300 triệu đồng nhưng có 30 hộ cùng gom tiền vào mua một máy, tất cả các hộ đều có hàng tốt.
Từ điều này cho thấy, nếu các hộ liên kết lại, thành lập một hợp tác xã làm đồ gốm, từng gia đình vẫn làm đồ gốm nhưng riêng khâu nguyên liệu là cung cấp chung bằng cách một người đi mua đất 10 người đỡ tốn kém, dùng chiếc máy này cho 10 người, chất lượng cao hơn mà rẻ hơn. Như vậy, làng nghề cũng cần đầu vào. Nếu có hợp tác xã lo đầu vào chung thì sẽ rẻ hơn và chất lượng cao hơn.
Vấn đề nữa là hiện tại ở các làng nghề, nhiều nơi sử dụng lò nung truyền thống, khả năng rút ngắn thời gian đốt khó. Cùng với đó là làm lô nhỏ không được, phải đầy lò mới nổi lửa được. Lò đốt bằng dầu tiết kiệm được thời gian hơn, đốt được cả những lô hàng nhỏ. Nhưng nếu mỗi hộ có một lò bằng đất, một lò bằng dầu thì lại lãng phí. Do đó, nếu có hợp tác xã, thì các hộ vẫn có lò nung đất nhưng vẫn có lò nung dầu để dùng chung theo nhu cầu của các hộ sản xuất. Như vậy, hợp tác xã có thể có một số tài sản chung, trong khi tài sản chính vẫn nằm ở hộ, nhưng sản xuất hiệu quả hơn, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân nêu.
Tiếp nữa là vấn đề mẫu mã sản phẩm, "Mỗi hộ nếu có 1 người theo ngành thiết kế thì cũng chỉ thiết kế được cho sản phẩm nhà mình. Nếu có hợp tác xã, có một tổ về nghiên cứu thị trường và mẫu mã, chỉ cần 3 - 4 người cùng nghiên cứu về thị trường và phổ biến những thông tin đó cho tất cả các hộ để từ đó có thể quyết định sẽ làm mảng gì, thể thiết kế mặt hàng đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. Ví dụ đồ gốm vào căn hộ chung cư như thế nào? Đồ gốm vào khách sạn như thế nào? Đồ gốm vào khu du lịch, quà lưu niệm như thế nào? Những nhu cầu đặc thù đó một hộ không thể nghiên cứu được. Nếu có hợp tác xã có một tổ chuyên lo nguyên liêu, tổ lo thị trường làm mẫu mã sản xuất thử nghiệm, thì sẽ chuyển giao toàn bộ thiết kế và kỹ thuật cho từng hộ để sản xuất” – Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh..
Vấn đề thứ 4 là tiêu thụ sản phẩm làng nghề, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân lấy ví dụ như ở làng nghề Phù Lãng đề nghị Nhà nước hỗ trợ kinh phí để chở đồ gốm đi triển lãm ở Đồng Nai, nhưng việc này khó khả thi vì một chuyến chở đồ mất 20 triệu đồng. 30 hộ đi mất hàng trăm triệu đồng nhưng nếu có hợp tác xã chỉ cần 2 - 3 người đi có thể quảng bá cho cả làng. Nếu thực hiện mô hình HTX thì vừa tạo động lực của từng hộ chăm chút sản phẩm của mình thật tốt, thật đẹp lại có nhãn hiệu riêng; đồng thời những nhu cầu chung được giải quyết qua HTX thì hiệu quả sẽ cao hơn.
Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân cho biết: "Sau khi đi khảo sát làng nghề, chính Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam cũng cho rằng việc hướng tới hợp tác xã kiểu mới là rất phù hợp nhưng hiện nay chưa có ví dụ trong thực tiễn. Nên có thí điểm. Các Bộ, ngành, MTTQ và Hiệp hội làng nghề, Liên minh Hợp tác xã chọn một số địa phương hỗ trợ xây dựng hợp tác xã đầu tiên của làng nghề theo mô hình hợp tác xã kiểu mới. Qua qua thời gian hoạt động nếu có sức thuyết phục sẽ là ví dụ để phát triển thêm”./.