Mô hình HTX nông nghiệp của CHLB Đức
00:40 - 18/03/2015
Nước Đức được coi là một trong những chiếc nôi đầu tiên của mô hình kinh tế HTX ở châu Âu. Từ những năm 40 của thế kỷ 19, Friedrich Wilhem và Schlulze-Delitz, đã có ý tưởng mô hình kinh tế HTX và thành lập, phổ biến mô hình này. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu kinh tế của CHLB Đức đã có những thay đổi mạnh. Các ngành công nghiệp và dịch vụ đã thay thế và áp đảo kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Tuy vậy, cho đến ngày nay CHLB vẫn còn có một hệ thống kinh tế HTX vững mạnh, đặc biệt tại khu vực nông nghiệp và nông thôn, đóng góp quan trọng vào kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế quốc dân nói chung của CHLB Đức.
CHLB Đức ngày nay là nước có nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới, sau Mỹ và Nhật Bản. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2007 của Đức đạt khoảng 2.300 tỷ Euro (tương đương 3.500 tỷ USD, gấp hơn 50 lần GDP của Việt Nam năm 2007).
Khoảng 18 triệu ha đất, tương đương với 50% diện tích lãnh thổ của Đức, được sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Một nửa còn lại là đất đô thị, khu công nghiệp và đất rừng.
Tương tự như Việt Nam, số lượng các HTX nông nghiệp chiếm tỷ lệ khá cao với 3188 HTX trong tổng số 5324 HTX hiện có, chiếm 60%. Tổng doanh thu của tất cả các HTX nông nghiệp và 26 liên hiệp HTX nông nghiệp năm 2007 là hơn 38,3 tỷ Euro. Các HTX nông nghiệp đã thu hút tổng cộng 2,2 triệu thành viên. HTX nông nghiệp của CHLB Đức hoạt động đa dạng ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ khác nhau.
Ngoài ra còn có rất nhiều HTX nông nghiệp hoạt động kinh doanh, dịch vụ ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau như dịch vụ quản lý chợ, dịch vụ vệ sinh, dịch vụ vật liệu xây dựng, dịch vụ sấy khô, đóng gói sản phẩm, dịch vụ than, dầu đốt,...Trong số các HTX nông nghiệp hiện nay vẫn còn có 214 HTX đang thực hiện đồng thời hoạt động tiết kiệm-tín dụng nội bộ theo giấy phép của cơ quan chức năng ngành ngân hàng.
Ngoài dịch vụ cung cấp cho thành viên, các HTX nông nghiệp tạo ra khoảng 150.000 việc làm trực tiếp. Tính trung bình mỗi HTX nông nghiệp sử dụng 46 lao động.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa toàn diện của nền kinh tế, không chỉ số lượng HTX nông nghiệp giảm mà số lượng lao động nông nghiệp cũng giảm nhiều. Nếu như năm 1949 nước Đức còn có hơn 4 triệu lao động nông nghiệp tại gần 2 triệu hộ nông dân, trang trại nhỏ, thì đến năm 2000 chỉ còn khoảng 220.000 lao động được tuyển dụng làm cho các doanh nhiệp nông thôn này. Nhờ cơ giới hoá, tự động hoá rất cao, năng suất lao động nông nghiệp cũng được tăng đáng kể. Cách đây 60 năm, một lao động nông nghiệp có thể nuôi được 10 người thì ngày nay con số đó là 124 người. Mặc dù nông nghiệp chiếm tỉ trọng thấp trong nền kinh tế nhưng với nhiều sản phẩm nông nghiệp ví dụ như sản phẩm thịt, sản phẩm sữa,... mức cung vẫn lớn hơn mức cầu tại thị trường nội địa của Đức. Vì vậy Đức cũng rất chú trọng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Giá trị xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp năm qua đạt hơn 3 tỷ Euro.
Các HTX nông nghiệp của Đức đang nắm thị phần cao đối với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp quan trọng: 70% thị phần sản phẩm thịt chế biến, hơn 60% thị phần của các sản phẩm sữa, hơn 30% thị phần rượu nho.
Hiện nay CHLB Đức có các HTX nông nghiệp chính sau:
- 925 HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp
- 392 HTX mua bán nông nghiệp
- 301 HTX sữa và sản phẩm sữa
- 222 HTX trồng và bảo quản nho
- 138 HTX cung cấp nước sạch
- 98 HTX chăn nuôi và chế biến sản phẩm thịt
- 72 HTX chế biến rau, quả
- 68 HTX trồng cỏ và chế biến thức ăn gia súc
- 52 HTX cung cấp điện
- 48 HTX dịch vụ máy nông nghiệp
- 36 HTX thủy hải sản
- 30 HTX hoa, cây cảnh
- 23 HTX bánh mỳ, bánh ngọt
- 17 HTX dịch vụ nhà kho, nhà đông lạnh
- 10 HTX chế biến rượu nho
Chính sách của Nhà nước Đức đối với lĩnh vực nông nghiệp:
Nhà nước Đức chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp có tính cạnh tranh cao và bền vững. Bên cạnh các mục tiêu cung cấp lương thực và thực phẩm thì ngành nông nghiệp của Đức được trao thêm các nhiệm vụ, chức năng mới như cung cấp các sản phẩm nguyên vật liệu cho công nghiệp, công tác bảo tồn chăm sóc môi trường, cảnh quan nông nghiệp, phát triển và cung cấp năng lượng mới từ mặt trời và sức gió,... CHLB Đức đặc biệt chú trọng bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay có tới hơn 30% diện tích canh tác nông nghiệp được khai thác, sử dụng theo các phương pháp mà sẽ tổ hại ít nhất cho môi trường. Các phương pháp này là trông trọt sinh thái, sử dụng phân hữu cơ, giảm thiểu phân hoá học và thuốc trừ sâu độc hại, áp dụng các biện pháp bảo vệ cảnh quan, xây dựng các đồng cỏ, bãi chăn thả súc vật.
Ngày nay phần lớn các chính sách nông nghiệp lớn của CHLB Đức đều do Uỷ ban châu Âu quyết định và ban hành. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực như bảo vệ môi trường nông nghiệp, trong khuôn khổ chung Nhà nước Đức vẫn có những chính sách hỗ trợ cụ thể.
Về nguyên tắc các HTX nông nghiệp được đối xử hoàn toàn bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trong lĩnh vực nông nghiệp. Bình đẳng về mọi quyền lợi cũng như mọi nghĩa vụ theo luật định. Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích cho nông nghiệp đều được áp dụng chung cho tất cả đối tượng tham gia lĩnh vực này, trong đó có HTX và xã viên HTX. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn được Nhà nước chú trọng đầu tư. Trước kia tất cả các chủ thể kinh doanh nông nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp nông thôn hay Họp tác xã nông nghiệp đều được Nhà nước Đức hỗ trợ khi họ bị ảnh hưởng thiệt thòi vì các điều kiện hạ tầng khó khăn, không đảm bảo canh tranh. Hiện nay các hỗ trợ trực tiếp đó đối với kinh tế nông nghiệp không còn phù hợp với chính sách chung của Uỷ ban châu Âu nên bị bãi bỏ.
Thay vào đó Nhà nước Đức sử dụng các chính sách hỗ trợ gián tiếp như thông qua các chương trình bảo vệ môi trường nông nghiệp, ưu đãi về thuế khi đầu tư vào thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời, sức gió. Nhà nước đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo cho người nông dân, giúp họ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái. Do đa số người nông dân tham gia là thành viên của một HTX nông nghiệp nên rất nhiều chương trình đào tạo hay hỗ trợ gián tiếp cho người nông dân được các HTX chủ động thực hiện hoặc kết hợp, hợp tác với các cơ quan, tổ chức khác.
Đặc điểm và kinh nghiệm của các HTX nông nghiệp của CHLB Đức:
Kinh tế HTX của CHLB được coi là một bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế dân doanh. Kinh tế nông nghiệp của CHLB Đức theo truyền thống phần lớn vẫn thuộc về cá nhân nông dân, kinh tế hộ và chủ trang trại nhỏ với số lượng khoảng hơn 400.000 đơn vị sản xuất nông nghiệp. Không như ở Mỹ hay các nước Tây Âu khác chủ trang trại thường có diện tích canh tác rất lớn, tại Đức có tới trên 90% số hộ nông dân hay chủ trang trại nhỏ chỉ có từ 1 đến dưới 50 ha đất nông nghiệp.
Các thành viên đồng thời cũng chính là khách hàng chính của các HTX nông nghiệp cũng như phi nông nghiệp chủ yếu là các cá nhân, hộ nông dân, chủ trang trại nhỏ. HTX nông nghiệp của CHLB Đức không thay thế kinh tế hộ, kinh tế trang trại hay kinh tế tư của người nông dân. HTX nông nghiệp chủ yếu cung cấp các dịch vụ mang tính hỗ trợ cho các thành viên của mình. Đó là các dịch vụ mà tự thân những người nông dân, các hộ gia đình, trang trại không thể thực hiện được hoặc phải thực hiện với chí phí cao hơn dịch vụ của HTX, hiệu quả thấp hơn so với sử dụng dịch vụ của HTX.
Các dịch vụ của HTX đối với xã viên, thành viên là hỗ trợ mang tính kinh tế, đem lại lợ ích kinh tế trực tiếp và cả lâu dài cho xã viên. Đây chính là lí do để HTX được thành lập, được duy trì để tồn tại và phát triển. Cũng chính vì lợi ích kinh tế thiết thực mà họ được hưởng trực tiếp và lâu dài thông qua các dịch vụ của HTX mà các xã viên tự nguyện tham gia HTX, gắn bó và có trách nhiệm với HTX.
Thành viên HTX cũng chính là những khách hàng quan trọng nhất của HTX. Vì vậy bất cứ nhu cầu nào của thành viên được phát sinh là HTX có thể thiết kế sản phẩm nhằm đáp ứng phục vụ. Chỉ cần một số lượng tương đối các nhu cầu dịch vụ này là HTX có thể thực hiện với chi phí thấp hơn, hiệu quả hơn, có lợi kinh tế hơn cho thành viên của mình. Đây chính là nguyên tắc kinh doanh, cung cấp dịch vụ của HTX nông nghiệp của CHLB Đức “Lợi thế nhờ qui qui mô, mua bán sỉ tốt hơn mua bán lẻ”.
Trước hết, theo truyền thống, các HTX nông nghiệp của Đức cung cấp các dịch vụ đầu vào như cung cấp dịch vụ thuỷ nông, điện, cung cấp nguyên vật liệu sản xuất nông nghiệp như hạt giống, cây giống, con giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc....Bên cạnh đó là các dịch phục khác như dịch vụ làm đất, cung cấp máy nông nghiệp, dụng cụ lao động, vật tư chuồng trại, xăng dầu, chất đốt,.... Cũng thuộc nhóm dịch vụ đầu vào mà các HTX nông nghiệp cung cấp cho xã viên của mình còn có dịch vụ tư vấn, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới (cây, con giống mới, kỹ thuật chăm bón, nuôi dưỡng, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại,...), dịch vụ nhà kho, dịch vụ bảo quản đông lạnh, hỗ trợ cung cấp các dịch vụ tài chính (vốn vay, bảo hiểm),...
Trong nền kinh tế thị trường, canh tranh hàng hoá ngày càng gay gắt. Các sản phẩm nông nghiệp của nông dân cũng không là ngoại lệ. Và những người nông dân, chủ trang trại rất cần đến các dịch vụ hỗ trợ đầu ra vì đầu ra chính là khó khăn lớn nhất, thách thức lớn nhất của người nông dân trong nền kinh tế thị trường. Các HTX nông nghiệp của Đức đã đặc biệt chú ý đến vấn đề này. Thực ra đây cũng là trách nhiệm của HTX vì thành viên có nhu cầu. Các dịch vụ đầu ra chính của HTX là hỗ trợ về gia công, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm của thành viên với giá tốt nhất, có lợi nhất cho thành viên. Nhiều HTX nông nghiệp đã xây dựng được các xưởng sản xuất, nhà máy hiện đại để chế biến sản phẩm của nông dân thành các thành phẩm có giá trị thương mại cao. Để có thể hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, các HTX nông nghiệp của Đức còn rất chú trọng đến phát triển các sản phẩm thành phẩm mới, theo dõi và cung cấp, tư vấn cho thành viên về các thông tin thị trường, giúp cho các sản phẩm của thành viên luôn đựơc đổi mới, định hướng theo nhu cầu của thị trường. Từng thành viên HTX rất khó có thể đầu tư tạo ra một thương hiệu mạnh cho mình. Vì vậy các HTX nông nghiệp đặc biệt chú ý đến chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu mạnh cũng như quảng bá thương hiệu đó vì lợi ích của thành viên.
Theo xu thế chung của thị trường, các nông phẩm sinh thái, các sản phẩm lương thực, thực phẩm “sạch” ngày càng được ưa chuộng và có giá trị thương mại cao. Các HTX nông nghiệp ở CHLB Đức đã rất chú trọng định hướng, tư vấn và hỗ trợ thành viên HTX trong việc trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, chế biến theo đúng các tiêu chuẩn, qui định cần thiết. Các sản phẩm thịt “sạch”, sữa “sạch”, rau quả “sạch” mang thương hiệu HTX ,... đang là những sản phẩm rất có lợi thế trên thị trường tiêu dùng ở Đức, giúp người nông dân có thể sống được, sống tốt với các sản phẩm của mình, mặc dù cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn.
HTX nông nghiệp ở CHLB Đức hoạt động theo Luật HTX Đức được ban hành từ năm 1890. Theo đó các HTX được coi và đối xử hoàn toàn bình đẳng như các doanh nghiệp khác, phải cạnh tranh lành mạnh với các loại hình doanh nghiệp khác. Các HTX nông nghiệp không được hưởng ưu đãi thuế. Những hỗ trợ của Nhà nước, nếu có, thì chỉ là gián tiếp và dành cho tất cả đối tượng, doanh nghiệp lĩnh vực nông nghiệp, không chỉ dành riêng cho HTX.
Mặc dù thuế suất thu nhập doanh nghiệp ở Đức khá cao với tỉ lệ khoảng 45%, nhưng đối với các HTX Đức nói chung và các HTX nói riêng, khoản thuế này không bị coi là khó khăn đặc biệt. Lí do là các HTX lấy mục đích tương trợ, hỗ trợ thành viên của mình là chính. Thu nhập chính của HTX chính là từ thu phí dịch vụ đầu ra hoặc đầu vào khi cung cấp dịch vụ cho thành viên HTX. Nếu chênh lệch thu chi lớn thì các HTX nông nghiệp có thể hoàn trả lại một phần phí đã tạm thu trước từ các thành viên. Do vậy các thành viên HTX lại càng được hưởng lợi từ dịch vụ của HTX với chi phí thấp và đồng thời thu nhập chịu thuế thật sự của HTX không thể còn quá nhiều.
Với đặc thù của mô hình kinh tế HTX, thành viên đồng thời khách hàng, các HTX thực hiện chính sách mở trong việc thu hút thành viên vào HTX, luôn luôn gia tắc các lợi ích kinh tế để người có nhu cầu tự nguyện gia nhập HTX. Chính vì lẽ đó sô lường thành viên các HTX ở toàn CHLB Đức lên tới 20 triệu người, bằng khoảng một phần tư dân số nước này.
Đa số các HTX nông nghiệp ở Đức có số lượng thành viên tương đối lớn, thường chỉ ít hơn số lượng thành viên của các HTX tín dụng. Ví dụ HTX chăn nuôi chế biến thịt trung bình có từ 70 đến 150 thành viên; HTX chế biến sữa có từ 350 đến 400 thành viên; HTX mua bán nông nghiệp có từ 250 đến 500 thành viên; HTX trồng nho có từ 200 đến 300 thành viên,....Nhờ số lượng khá đông thành viên tham gia, một mặt HTX nông nghiệp đã có sẵn các khách hàng truyền thống và chính yếu cho mình, mặt khác HTX có thể huy động vốn điều lệ từ số đông thành viên. Ở các HTX CHLB Đức nói chung và các HTX nông nghiệp nói riêng, không có những thành viên góp vốn lớn, có thể chi phối, gây sức ép về mặt vốn đối với HTX. Phần lớn các HTX có qui định tỉ lệ góp vốn tối thiểu (thường từ khoảng 100 –500 Euro) và tối đa (thường được gấp 5-10 mức tối thiểu). Như vậy mỗi thành viên HTX thường chỉ góp 0,1% -0,5% vốn điều lệ, cao nhất cũng chỉ khoảng 1%-3%). Các thành viên viên HTX do góp vốn ít nên không quá quan tâm đến việc được chia cổ tức nhiều ít mà họ quan tâm chủ yếu đến các dịch vụ mà HTX cung cấp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đời sống của mình. Với chính sách thành viên và chính sách góp vốn như vậy, các HTX nông nghiệp không bị áp lực chạy theo lợi nhuận tối đa để chia cổ tức càng cao càng tốt. Các HTX có điều kiện thực hiện chức năng hỗ trợ, cung cấp dịch vụ tốt nhất, có lợi nhất cho thành viên của mình.
Số lượng thành viên trung bình của một HTX:
- HTX chăn nuôi chế biến thịt có từ 70 đến 150 thành viên;
- HTX chế biến sữa có từ 350 đến 400 thành viên;
- HTX mua bán nông nghiệp có từ 250 đến 500 thành viên;
- HTX trồng và bảo quản nho có từ 200 đến 300 thành viên;
- HTX dịch vụ điện có từ 300 đến 500 thành viên
So với các HTX nông nghiệp Việt Nam, các HTX nông nghiệp Đức không có khó khăn về đất hay trụ sở. Các HTX vì vậy không quá chú trọng đến việc phải mua đất hay sở hữu trụ sở riêng. Trên cơ sở nguồn đất do HTX quản lý hoặc thuê dài hạn của xã viên, HTX được chính quyền địa phương cho phép xây dựng bán kiên cố các nhà kho, cửa hàng, trụ sở của mình khi có nhu cầu cần thiết.
Hoàn toàn bình đẳng như các loại hình doanh nghiệp khác, các HTX nông nghiệp ở Đức có thể vay vốn không khó khăn từ các ngân hàng thương mại. Họ không nhất thiết phải có hay phải có đủ tài sản thế chấp mà quan trọng hơn là dự án vay vốn khả thi và HTX có uy tín, hoạt động quản trị, điều hành minh bạch, hiệu quả. Theo qui định của Luật HTX Đức, hàng năm các HTX đều được kiểm toán định kỳ do Hiệp hội HTX thực hiện.
Nguồn: www.vca.org.vn