Tìm lại vị thế cho làng nghề ven đô
17:00 - 04/04/2017
(TNNN) - Theo thống kê, hiện toàn thành phố có Hà Nội 1.350 làng nghề, chiếm khoảng 50% số làng nghề của cả nước. Các làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm cho gần 1 triệu lao động nông thôn với thu nhập bình quân 1 triệu đồng/người/tháng.
Các àng nghề hiện vẫn theo quy mô nhỏ

Tuy nhiên, hầu hết các làng nghề phát triển còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, chưa được đầu tư chiều sâu và khoa học công nghệ. Hơn  nữa, phần lớn các làng nghề chưa xây dựng được thương hiệu, mã số, mã vạch cho sản phẩm nên tính cạnh tranh chưa cao. Hầu hết cơ sở sản xuất đều thiếu mặt bằng, nguyên liệu ngày càng khan hiếm và tăng giá, khó tiếp cận vốn, ô nhiễm môi trường nặng nề, thu nhập thấp, số lượng lao động sụt giảm nhanh.



Tất cả những tinh túy của làng nghề truyền thống Việt Nam đều tập trung tại Thủ đô, song hiện có tới 50% làng nghề không tìm được đầu ra cho sản phẩm, nhiều doanh nghiệp tan rã, xuất khẩu nhỏ giọt, môi trường đang bị ô nhiễm. Nhiều làng nghề nổi tiếng như đúc đồng Ngũ Xá, giấy Yên Thái, cốm làng Vòng, hương Yên Phụ... một thời là niềm tự hào của Hà Nội nhưng đến nay nghề còn, nghề mất, nghề đang bị cơ chế thị trường cuốn vào một cơn lốc mới...



Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ, Phú Xuyên có hơn 200 hộ dân, nhưng có tới 90% số hộ làm nghề. Với tuổi đời cả ngàn năm, làng nghề này đã được biết đến với những sản phẩm khảm ốc xà cừ trên nền gỗ quý như sập gụ, tủ chè, tranh bộ, tứ bình... được xuất đi thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, theo ông Trần Bá Hỉnh, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ, sản xuất làng nghề chủ yếu vẫn theo quy mô nhỏ, việc đào tạo nghề phần lớn theo phương thức "cha truyền con nối". Đây cũng là thực trạng chung của nhiều làng nghề trên địa bàn Hà Nội.



Các làng nghề còn phải đối mặt với sự khan hiếm và gia tăng giá cả của nguyên liệu sản xuất. Giá mua nguyên liệu đầu vào tăng cao, trong khi giá bán sản phẩm ra thị trường thế giới gần như không đổi đã kéo lợi nhuận của các cơ sở sản xuất làng nghề xuống thấp.



Theo ông Nguyễn Văn Sinh – Chủ tịch Làng nghề lụa Vạn Phúc, tơ tằm là nguyên liệu chính trong sản xuất lụa. Nguồn tơ phụ thuộc nhiều vào các hộ trồng dâu nuôi tằm, nhưng hiện chưa có quy hoạch nguyên liệu trên quy mô lớn. Trứng tằm nhập khẩu không nguồn gốc, dễ gây ra bệnh cho tằm. Thiết bị ươm tơ lạc hậu, nên tơ chất lượng thấp. Vùng nguyên liệu dâu suy giảm, giá tăng cao do thiếu nguyên liệu, 40% số hộ thiếu vốn để sản xuất.



Hầu hết các làng nghề đều gặp khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn bởi nguồn vốn hiện tại của các làng nghề chủ yếu là từ vay ngân hàng, từ người thân và một phần vốn tự có (bao gồm cả vốn do khách mua hàng ứng trước). Vốn ngân hàng thường có lãi cao, thủ tục vay rườm rà. Mức lãi suất các khoản vay từ ngân hàng lên đến 28% năm 2010, hiện dao động khoảng 20%, nhưng các cơ sở kinh doanh sản phẩm làng nghề vẫn rất khó có thể tái đầu tư mở rộng quy mô sản xuất.



Thêm vào đó, để có thể tồn tại và phát triển, các làng nghề rất cần có sự đầu tư, thay đổi về công nghệ, mẫu mã, bảo vệ môi trường…Trong đó, quan trọng nhất là xây dựng thương hiệu, bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Vì vậy, rất cần có sự đầu tư, hỗ trợ từ phía Nhà nước để duy trì các làng nghề tạo hiệu quả kinh tế ở các vùng ven đô, đồng thời cũng là góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của địa phương.



Nhiều ý kiến cho rằng Nhà nước cần ưu tiên phát triển làng nghề trên cơ sở bảo đảm xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu bền vững dựa trên lợi thế cạnh tranh của mỗi vùng; cần đầu tư chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến, bảo quản tiên tiến nhằm tăng năng suất lao động và đảm bảo chất lượng sản phẩm. Bảo tồn và phát triển làng nghề bền vững không chỉ đơn giản là xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá mà cốt lõi là phải làm cho sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường.



Muốn làm được điều này, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa các hộ sản xuất trong làng nghề để tạo thành sức mạnh thống nhất. Đồng thời, có chính sách hỗ trợ làng nghề xây dựng các điểm trưng bày giới thiệu sản phẩm gắn với phát triển du lịch và mở lớp đào tạo nghề cho lớp trẻ.



Thêm vào đó, chính sách bảo tồn và phát triển làng nghề bền vững của Nhà nước nên lấy đối tượng chính là người thợ, nghệ nhân trong làng nghề để giữ họ ở lại với nghề. Thời gian qua, việc vinh danh, phong tặng các nghệ nhân làng nghề chưa xứng đáng với những đóng góp của họ.



Cần ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho định hướng về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu (XK) theo hướng đẩy mạnh XK những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm có tính sáng tạo; phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh phục vụ ngành thủ công mỹ nghệ; thành lập trung tâm thiết kế và phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ quốc gia đảm bảo cung cấp dịch vụ thiết kế và phát triển sản phẩm; triển khai thực hiện chương trình xúc tiến thương mại quốc gia – tập trung khai thác các nhóm ngành hàng chủ lực phục vụ XK.



Đồng thời, tập trung phát triển và củng cố các thị trường mới để đa dạng hóa các hình thức phân phối, các phân khúc thị trường; khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân làng nghề với việc bảo vệ môi trường…



Làng nghề và nông nghiệp có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Từ xưa đến nay, nông dân vẫn trồng lúa, rau để tự túc lương thực, thực phẩm. Mỗi khi xong mùa vụ, thời gian nông nhàn, nông dân làm nghề thủ công để tăng thu nhập. Nay không còn ruộng, thu nhập từ nghề thủ công thấp không đủ sống, người lao động có xu thế tìm việc ở các khu công nghiệp để có thu nhập cao hơn. Nhưng công nghiệp chưa thể đáp ứng ứng đủ nhu cầu về việc làm, khiến nông dân phải bỏ làng ra nội đô để làm thuê, gây xáo trộn và bất ổn cho vùng ven đô.



Nếu mất đi hai trụ cột là làng nghề và nông nghiệp thì vùng ven đô sẽ lao đao, phát triển Thủ đô sẽ không thể bền vững. Vì vậy, cần phải duy trì mô hình làng nghề gắn với sản xuất nông nghiệp thì mới giữ được nông dân ly nông, không ly hương. Không nên ồ ạt chuyển đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp và phải có những giải pháp phát triển bền vững cả nông nghiệp và làng nghề cho vùng ven đô.
 
Thu An
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email

Bài đọc nhiều nhất

ĐBSCL: Mua tạm trữ 760.000 tấn gạo